Những niềm vui và bất ngờ từ thời dạy toán
Nguyễn
Đức Dân
Hàng năm,
cứ vào dịp tháng 11 là tôi lại ra Hà Nội dự họp
với mấy lớp tôi từng dạy toán. Có vài mốc
thời gian vui đáng nhớ trong đời dạy toán
trung học của tôi.
Năm
1957 lúc 21 tuổi tôi tốt nghiệp ngành Toán, khoa Toán Lý, trường
Đại học Sư phạm Hà Nội và được
về dạy ở trường Chu Văn An Hà Nội, hồi
trước gọi là trường Bưởi.
Năm
1962 Bộ Giáo Dục giao tôi nhiệm vụ ra đề thi
môn toán trong kỳ thi tốt nghiệp cấp 3 (trung học
phổ thông) toàn miền Bắc.
Hè
1962, Sở Giáo dục Hà Nội điều tôi lên Phòng cấp
2 – 3 của Sở, phụ trách chỉ đạo giảng
dạy môn toán cấp 3.
Công việc
của tôi ở đây khá đơn điệu. Xuống
các trường dự giờ theo kế hoạch chung của
Phòng và góp ý giáo viên để
trong những buổi sơ kết cuối học kỳ và
tổng kết cuối năm đưa ra những nhận
xét tình hình giảng dạy bộ môn toán và nêu kế hoạch
hoạt động trong năm
học tới. Rồi tổ chức các kỳ thi học
sinh giỏi… Còn lại, khá thoải mái và tự do về giờ
giấc làm việc. Được tự do sắp xếp
công việc là một cơ hội. Trong giai đoạn này
tôi cũng làm được một số việc có ý nghĩa.
Tranh thủ nâng cao trình độ chuyên môn, tôi miệt mài đọc
những bài hay trong tạp chí Nga Математика
в школе (Toán học trong nhà trường),
trong những tuyển tập toán sơ cấp và giải một
số bài trong những kỳ thi học sinh giỏi toán vùng
Mátxcơva hoặc Liên Xô. Quyển Как решать
задачи? (Giải bài toán như
thế nào?) của Polya (dịch từ tiếng Anh) gần
như là sách gối đầu giường của tôi. Từ
đó, một mặt tuyển chọn ra những vấn đề
hay trong môn toán phổ thông, cùng với một số giáo viên
Hà Nội tôi ra được 3 số báo Toán học (in
ronéo) của Phòng Phổ thông, mặt khác xin được
với Sở Giáo dục cho mở lớp Bồi dưỡng
học sinh giỏi toán của Hà Nội, tôi dạy vào buổi
tối thứ bảy. Học sinh giỏi toán của Hà Nội,
em nào thích thì đến học.
Có lẽ
nhờ vậy một phần, ở các kỳ thi học
sinh giỏi toán cấp III toàn miền Bắc trong 3 năm
1963 – 1965 các đội của đoàn Hà Nội đều đoạt
thành tích xuất sắc. Trong kỳ thi học sinh giỏi năm
1962 – 1963, mỗi tỉnh được cử một đội
5 em. Một số tỉnh lớn được cử hai
hoặc ba đội. Cả ba đội của Hà Nội
xếp 3 hạng đầu. Bốn giải cá nhân cao nhất
đều thuộc về Hà Nội. Điều này khiến
năm sau Bộ quy định lại, mỗi đơn vị
chỉ được cử một đội. Một chi
tiết khiến tôi nhớ mãi. Trong kỳ thi của thành phố
Hà Nội thì em Vũ Hoài Chương xếp thứ nhất,
em Đoàn Trịnh Ninh xếp thứ nhì. Tới kỳ thi
toàn miền Bắc thứ tự đảo lại: Vũ
Hoài Chương giải nhì còn Đoàn Trịnh Ninh đoạt
giải nhất.
Cũng
có lẽ nhờ vậy, tiếng nói về môn toán của
tôi có trọng lượng. Điều này liên quan đến
một chi tiết đáng nhớ. Có giáo viên tôi chỉ gặp
một lần nhưng thời gian không phủ mờ dấu
ấn để lại. Năm học 1964 – 1965 chúng tôi về
dự giờ ở trường X huyện Đông Anh, ông trưởng
phòng giáo dục, tôi gọi là bác L vì đã lớn tuổi,
cùng đi. Chúng tôi được gợi ý thăm lớp của
giáo viên toán TTTh. Ông L nói với tôi tay giáo viên này kiêu, dạy
lại khó hiểu các anh thăm lớp rồi “cho anh ta một
trận”. Khi dự giờ giáo viên Th, ngoài vài nhược điểm
của một anh giáo trẻ mới ra trường 2 năm,
tôi thấy anh Th có lối tư duy chặt chẽ, mạch
lạc và tôi linh cảm thấy đây sẽ là một giáo
viên rất giỏi. Sau buổi góp ý chung, tôi viết vào một
tờ giấy xé từ quyển sổ tay và đưa cho
ông L với nội dung đây là một giáo viên rất có triển
vọng, nên đưa về dạy học sinh giỏi.
Chuyện này tôi có nói lại với Phòng cấp 2-3 của Sở.
Lúc đó
Hà Nội có chủ trương mở lớp chuyên toán cấp
3, nhưng cấp 2 thì chưa. Tôi xin đi dạy lớp
chuyên toán đầu tiên của Hà Nội, lớp 8G ở trường
cấp III Xuân Đỉnh. Được một học kỳ
tôi được cử đi làm nghiên cứu sinh. Sau khi bảo
vệ tiến sĩ, năm 1970 tôi về dạy ở Đại
học tổng hợp Hà Nội, không còn nhiệm vụ gì ở
Sở Giáo dục Hà Nội nữa.
Bẵng
đi hơn nửa thế kỷ, tháng 6 năm 2016, hai anh
S. và T. từ Hà Nội vào tới gặp tôi nói họ là học
trò của thày Th.
“ - Có
phải thầy là thầy Dân trước đây ở Hà Nội
không? Chúng em tìm thầy; từ trường ĐHKH tự
nhiên người ta chỉ sang trường ĐHKH Xã hội
& Nhân văn, rồi tới khoa Văn học & Ngôn ngữ,
trước đây thầy dạy toán…
-
Đúng vậy, nhưng có việc gì
thế?
-
Chúng em muốn tôn vinh thầy…
-
Tôi thì có gì mà tôn vinh.
-
Nếu không có thầy phát hiện,
như thầy Th thường nói, thì thầy Th vẫn chỉ
là “một anh giáo làng, chứ đâu được về dạy
lớp chuyên toán cấp 2 của Hà Nội”
Trưa
16-10-2016 tôi nhận được một cuộc gọi lạ.
Hóa ra là PGS TS TTh từ Hà Nội gọi sau 52 năm gặp
nhau, và chỉ gặp nhau 1 lần duy nhất. Ông giáo già 74 tuổi này nhắc lại
chuyện cũ:
“- Hồi
đó nếu không có anh đề nghị, em vẫn chỉ
là anh giáo làng ngoại thành thôi…
- Mình
thấy “ông” giỏi và rất có triển vọng nên đề
nghị, chứ có gì đâu, quyền quyết định
là của mấy ông tổ chức.
- Hồi
ấy các anh làm việc công tâm...”
Tôi rất
vui vì đã phát hiện và giới thiệu được một
giáo viên toán tài năng. Anh TTh đã rất thành công. Lớp học
sinh chuyên toán đầu tiên anh dạy có Hoàng Lê Minh, học
sinh Việt Nam đầu tiên đoạt huy chương
vàng trong kỳ thi toán quốc tế năm 1974. Khóa học
trò chuyên toán thứ bảy của anh có Ngô Bảo Châu, sau
này thành nhà toán học Việt Nam lỗi lạc.
Hà
Nội 11.11.2016